Sự tích về chùa Phật cô đơn

Chùa Phật Cô Đơn là tên dân gian đặt cho và thường xuyên sử dụng trở thành một thói quen. Bát Bửu Phật Đài mới là tên chính thức của chùa.

Tên Phật cô đơn bắt nguồn từ đâu?

Chùa Phật cô đơn là tên gọi quen thuộc mà người dân địa phương, Phật tử dùng để gọi chùa “Bát Bửu Phật Đài”. Sở dĩ người dân hay gọi như vậy là do có lí do.

Với tâm nguyện tôn tạo ngôi Tam bảo làm chỗ nương tựa tâm linh cho đồng bào noi gương đạo đức sống yên ổn, cư sĩ Lê Chí Bình đã phát tâm cúng dường khu đất rộng chừng 30 héc-ta của gia đình, trong đó kiến tạo ngôi chùa Thanh Tâm bên kênh Cầu Xáng, chùa hoàn thành và an vị Phật vào ngày 12-7-1956. Tại đây ngay từ buổi ban đầu ấy, một nhánh cây bồ-đề được chiết gốc từ đại thọ bồ-đề ở Benares, Ấn Độ – nơi Đức Thế Tôn tọa thiền để nhắc nhở thập phương về gốc tích của đạo thiêng.

Dẫu tôn tạo đơn sơ, nhưng ngôi chùa Thanh Tâm này, theo tâm nguyện của những vị sáng lập trong thâm ý “để nhắc nhở cho lòng người trong sạch mỗi khi vào chùa chiêm bái”, như cư sĩ Lê Chí Bình đã bộc bạch khi đề cập về lịch sử của Bát Bửu Phật Đài trong ngày lễ an vị tôn tượng Đức Bổn Sư ngày 25-8-1961, là cơ duyên để chuyển hóa vùng đất này thành thánh địa.

Tìm lại tư liệu xưa, với năng lượng thiện lành của tâm nguyện kiến tạo đất Phật, nơi đây đã ứng hiện nhiều sự mầu nhiệm ngoài cả sự suy tưởng của con người bình thường, làm cho lòng người yên ổn dẫu vùng đất này trải qua bao phen binh lửa khốc liệt, thăng trầm trong chiến tranh giành lại nền độc lập của dân tộc, thống nhất và hòa bình cho đất nước.

Chùa Phật cô đơn là tên gọi quen thuộc mà người dân địa phương, Phật tử dùng để gọi chùa Chùa Phật cô đơn là tên gọi quen thuộc mà người dân địa phương, Phật tử dùng để gọi chùa “Bát Bửu Phật Đài”. Ảnh: Internet

Chùa Thanh Tâm bắt đầu kiến tạo năm 1955, hoàn thành năm 1956, Bát Bửu Phật Đài được tôn tạo sau đó, bắt đầu vào năm 1959 và hoàn thành vào năm 1961. Phật đài có kiến trúc hình bát giác, cao 3m. Trên đài, tôn trí tượng Đức Phật Thích Ca cao 7m, nặng khoảng 4 tấn do Hội Phật học Nam Việt chủ trương tôn tạo, với sự tùy hỷ hiến cúng của cư sĩ Hội trưởng Chánh Trí Mai Thọ Truyền.

Việc cung thỉnh tôn tượng Đức Phật từ chùa Xá Lợi về Cầu Xáng (Đức Hòa) trong điều kiện bấy giờ là hết sức khó khăn. Chư vị tôn đức và cư sĩ lúc đó đã tổ chức nhiều cuộc cầu nguyện, chuyên tâm trì tụng kinh Pháp hoa trong thời gian dài liên tục, và nhờ năng lực hộ trì đó, nhiều duyên lành huyền nhiệm đã xuất hiện, vượt qua mọi trở ngại, thành tựu tốt đẹp. Lễ an vị Phật được tổ chức vào các ngày 22 đến 25- 8-1961 vào mùa Vu lan – Báo hiếu năm Tân Sửu trong sự hoan hỷ của đông đảo Tăng Ni, Phật tử.

Trải qua những năm tháng trong chiến tranh, với sự tàn phá của bom đạn, chùa Thanh Tâm cũng bị thiêu rụi, nhưng lạ lùng thay, kim thân Đức Phật lộ thiên vẫn sừng sững tĩnh tại. Dân di tản, nơi đây không bóng người, chỉ duy Đức Phật vẫn ở đó, an nhiên, có lẽ do vậy, mà Bát Bửu Phật Đài được người dân, các đoàn thanh niên xung phong đến đây lao động công ích năm 1976 truyền miệng là chùa “Phật Cô Đơn” – Đức Phật một mình giữa đồng không hoang vắng… Tên gọi dân gian này lan tỏa và đi vào lòng người từ đó.

Sau khi hòa bình lập lại, đất nước thống nhất, với những ứng hiện mầu nhiệm, dần dần Bát Bửu Phật Đài trở thành nơi mà người dân không chỉ tại thành phố mà cả các tỉnh thành lân cận đến lễ bái, cầu nguyện ngày mỗi đông hơn.
Ai tạo tác nên tượng Phật cô đơn?

chua-phat-co-don-binh-chanh
Xuất xứ của bức tượng Phật (cô đơn) trên Bát Bửu Phật đài khá bất ngờ. Theo tư liệu từ chùa Xá Lợi thì: Ban đầu khi xây chùa Xá Lợi, pho tượng được giáo sư Trương Đình Ý thực hiện bằng xi măng và thạch cao, tiếc rằng pho tượng đúc xong quá lớn không đưa lên chính điện trên lầu được, nên nhượng lại cho chùa khác (nay là tượng Phật cô đơn ở huyện Bình Chánh).

Võ văn Tường, trong Chùa Việt Nam – xưa và nay, cũng xác định rằng tượng này ban đầu được đúc cho chùa Xá Lợi, nhưng cho rằng tác giả là điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu. Tui nghĩ là ông nhầm lẫn. Nguyễn Thanh Thu là điêu khắc gia nổi tiếng với bức tượng Thương tiếc ở Nghĩa trang Quân đội VNCH cùng những tác phẩm điêu khắc khác có chủ đề tương tự, nhưng ông không được biết đến như một người tạo tác tượng Phật. Trong khi đó Trương Đình Ý nổi tiếng với hàng vài chục tượng Phật khắp nơi trên cả nước, nổi bật nhất là tượng Phật nằm trên núi Tà Cú. Trong một tài liệu chuyên môn, điêu khắc gia Trương Đình Vĩnh Lân (con ruột ông Trường Đình Ý, hiện ở Hoa Kỳ) đã viết về lời dạy của cha mình: “Tâm của người điêu khắc với tượng là một”. Theo ông Lân, cha ông từng dạy với điêu khắc Phật tượng làm sao phải rõ 32 tướng hảo và 80 tùy hình phụ để thể hiện nét tướng với cấu trúc chính xác nhân hình học. Có lẽ chính vì tạo tượng với thân tâm thanh tịnh cộng với khả năng điêu luyện về Phật tượng nên hơn 50 công trình của ông như ở chùa Ấn Quang, Xá Lợi, Phật Cô Đơn hay tượng Phật ở chùa Đại Giác ở Vũng Tàu, chùa Hồng Ân ở Huế… đều hao hao nhau và đạt đến nét “điêu khắc thuần tịnh”.

Kiến trúc chùa Phật Cô Đơn
Chùa Phật Cô đơn ngày nay đã được tu sửa nhiều xong vẫn mang đậm nét nguyên sơ, cổ kính, lấp ló trong những khu rừng bạch đàn xanh mướt tạo nên vẻ yên tĩnh và trầm mặc – Đặc trưng của những ngôi chùa cổ tại Việt Nam.Chùa Phật Cô đơn ngày nay đã được tu sửa nhiều xong vẫn mang đậm nét nguyên sơ, cổ kính, lấp ló trong những khu rừng bạch đàn xanh mướt tạo nên vẻ yên tĩnh và trầm mặc – Đặc trưng của những ngôi chùa cổ tại Việt Nam.

Tổng thể kiến trúc của chùa được xây dựng trên một mảnh đất khoảng hơn 30ha. Chính vì vậy, mọi không gian trong chùa các khu điện thờ đều vô cùng khang trang, thoáng mát và rất rộng rãi.

Chùa Phật Cô đơn ngày nay đã được tu sửa nhiều xong vẫn mang đậm nét nguyên sơ, cổ kính, lấp ló trong những khu rừng bạch đàn xanh mướt tạo nên vẻ yên tĩnh và trầm mặc – Đặc trưng của những ngôi chùa cổ tại Việt Nam.

Cổng Tam Quan, chắc chắn sẽ là địa điểm đầu tiên du khách nhìn thấy sau khi băng quá cánh rừng bạch đàn xanh mát, đôi lúc xen chút những tiếng chuông chùa và mùi nhang thơm thoang thoảng. Cổng Tam Quan của chùa được xây dựng rất cao, to và vô cùng trang nghiêm với những đường trạm trổ uốn lượn và vô cùng tinh xảo.

Khuôn viên của chùa được xây dựng trên diện tích khoảng 5ha, chính vì thế nơi đây được trưng bày và thờ rất nhiều tượng phật khác nhau.

Đi qua khu khuân viên của chùa, du khách sẽ di chuyển vào bên trong chánh điện là nơi thờ tụng tượng phật Di Đà, kế bên là tượng phật Tiêu Diện và thần Hộ Pháp. Tiếp đến là các khu điện thờ tượng phất bồ tát Chuẩn Đề, tượng phật Quán Thế Âm Bồ Tát, tượng phật Di Lặc, tượng Địa Tạng cùng rất nhiều những pho tượng phật khác được trạm khắc vô cùng tinh xảo.

Bước ra khỏi khu chánh điện, phía bên cạnh tượng Phật Cô Đơn, du khách sẽ nhìn thất một điện thờ Đức Thánh Quan Công. Di chuyển tiếp là điện thờ vị tổ sư Thích Thiện Bổn, đền thờ ông Hổ….

Thanh Tâm (Tổng hợp)