Biến “trai cong” thành… “chuẩn men”: Đừng ép con vào bi kịch

Từ nhỏ đến lớn mang vẻ “nữ tính hóa” thì lấy vợ là thành “đàn ông bản lĩnh”. Suy nghĩ sai lầm của một bộ phận bố mẹ đã vô tình đẩy những đứa con của mình vào bi kịch.

Tôi đã gặp một số phụ huynh có con là gay cho rằng từ nhỏ đứa con trai đã mềm mại, nhút nhát, xinh xắn nên có vẻ “nữ tính hoá” chứ chẳng bị “bệnh đồng tính” gì cả, đến tuổi trưởng thành chỉ cần kết hôn lấy lại “bản lĩnh đàn ông”. Và họ quyết định biến chàng gay thành “trai thẳng” bằng cách cưới vợ cho con. Điều này đã đẩy người đồng tính đến những dằn vặt: nên lấy vợ để duy trì nòi giống hay sống thật với con người của mình? Và có phương pháp khoa học nào biến người đồng tính thành “chuẩn men” được không?
 
Ảnh minh họa

 

Không ai trong chúng ta được hỏi ý kiến trước khi sinh ra và cũng không thay đổi được giới tính mà tạo hoá đã dựng nên. Nhưng chúng ta có thể quyết định và chịu trách nhiệm về những việc (hành vi tình dục) mình sẽ làm.

Cách đây vài thập niên, nhiều người có xu hướng tình dục đồng giới ở Việt Nam (cả nam lẫn nữ) bị xã hội kỳ thị. Họ phải chịu đựng, giấu diếm con người thầm kín “không giống ai” của mình, thậm chí cảm thấy tự ti, xấu hổ. Nay ở nước ta cộng đồng LGBT (đồng tính, song tính, chuyển giới) lên đến hơn 1,6 triệu người, theo thống kê ngày 17/5/2015 của tổ chức ICS – tổ chức của những người LGBT.
 
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhân cách người có xu hướng tình dục đồng giới không có gì khác mọi người, ngoại trừ xu hướng tính dục. Họ hoàn toàn khoẻ mạnh, có năng lực thể chất, tâm hồn phong phú, đam mê công việc, yêu quý người thân, trân trọng cơ thể và đời sống tình dục của mình, các cơ quan sinh dục hoạt động bình thường, biết nuôi dạy con cái như những bậc cha mẹ tốt.

Những nhà khoa học cho rằng xu hướng tình dục đồng giới là tự nhiên của một số ít người, được hình thành rất sớm, đôi khi ngay từ trong dạ mẹ và chắc chắn vào độ tuổi lên 5. Vì thế, người đồng tính chỉ là kết quả của một cấu trúc sinh học mà họ không thể thay đổi được chứ không phải là sự suy đồi về đạo đức hay sự chọn lựa có chủ ý.

 
Trước kia, Mỹ và một vài nước từng sử dụng những phương pháp rất “cứng” nhằm triệt tiêu cảm xúc tình dục đồng giới như: cắt bỏ vú và tử cung đang hoàn toàn lành lặn ở những người lesbian, cho những người gay nhìn người nam khoả thân cùng lúc gây shock điện nhằm “tẩy não” cho họ, phẫu thuật não ở thuỳ trán hay cắt bỏ tinh hoàn, âm vật…
 
Đến năm 1973, Hội tâm thần học Hoa kỳ đã loại tình dục đồng giới trong danh mục các bệnh về tinh thần hay rối loạn tình cảm, nó không có hại cho cộng đồng vì không lây lan và năm 1990 chứng minh rằng việc điều trị để thay đổi xu hướng tính dục không có tác dụng mà ngược lại còn gây hại nhiều hơn. Chính vì thế tình dục đồng giới không phải là đồi bại, lệch lạc, không phải là bệnh, không nên xem xét dưới góc độ đạo đức hay tôn giáo.
 
Có 7 cấp độ đồng tính luyến ái từ 0 đến 6, tương ứng với mức độ hấp dẫn tình dục bởi người cùng giới. Đa số nhân loại ở cấp độ 0 (là người dị tính, hấp dẫn hoàn toàn bởi người khác giới), cấp độ 6 là người hoàn toàn đồng tính, các cấp độ còn lại đều có cảm xúc tình dục với cả hai phái.
 
Về chuyện coi kết hôn như là 1 cách “chữa” 1 chàng “trai cong” thành “chuẩn men”, tôi thấy các gia đình nên cân nhắc thật kỹ. Bởi những nguyên nhân sau:
 
Thứ nhất, nếu là gay 100% lấy vợ chỉ để sinh con cho dòng họ thì “người chồng bất đắc dĩ” ấy đã nợ người con gái cả cuộc đời. Chưa hết, những đứa bé sinh ra trong tình cảm “lạnh nhạt” của bố dành cho mẹ lớn lên sẽ bị thiếu hụt về tình cảm và ít nhiều bị ảnh hưởng đến nhân cách sau này.
 
 Thứ hai, nếu “chàng trai cong” ấy nằm trong số các cấp độ còn lại thì vẫn có cảm xúc “khác hệ”. Giống như ông bà chúng ta ngày xưa không lấy nhau vì tình yêu nhưng vẫn sống với nhau tình nghĩa trọn đời, bạn có thể không được kết hôn với người mà bạn yêu nhất (là một chàng trai), mà lấy 1 người con gái do gia đình chọn cho (là người bạn không yêu bằng). Người đàn ông trưởng thành phải chịu trách nhiệm về sự chọn lựa và quyết định của mình để “yêu thương và giữ lòng chung thuỷ với em mỗi ngày trong suốt cuộc đời anh” như lời hứa trong hôn lễ của hai người.
 

Thiết nghĩ, bố mẹ thương con nhưng không thể sống hộ cuộc đời của con, vì thế đừng vì định kiến, vì trách nhiệm nối dõi tông đường của con trai trong gia đình để rồi ép con vào bi kịch hôn nhân. Còn những “chàng trai cong”, hãy dũng cảm đối mặt với cuộc đời thực của mình, không nên “trốn tránh” để rồi chẳng những gây lụy cho mình mà còn gây lụy cho người phụ nữ và những đứa trẻ vô tội.

Theo ThS-BS Nguyễn Lan Hải
Phụ nữ Thủ đô